top of page

Truyện ngắn phần thưởng đặc biệt
Kẻ nắm vận mệnh

Tia chớp lạch lõi xuyên qua bức tường mây đen đặc, qua lại nhiều lần trước khi đánh đoàng xuống cây gỗ lớn đứng thách thức giữa cánh đồng trơ trọi, nó thể hiện uy lực bằng dòng điện cao thế, mang theo tiếng nổ vang động, chẳng khác gì đàn voi rừng bị động uà té chạy làm rung chuyển đất trời. Cành me Tây già cỗi bị sét đánh gãy xuống mang theo   đám lửa rực cháy, tia lửa té vào những miếng vải bảy màu mỏng manh cũ kỹ buộc vòng ở gốc cây cháy trụi trong khoảnh khắc. Cái miếu linh thiêng cũng bị cành me Tây đè nát tan tành, bát cơm và các đồ tế lễ đổ nát tả tơi, bát hương và những bó hoa thờ cúng rơi vương vãi, tượng nặn ông bà già sứt mẻ tay chân gẫy cụt, thần tượng nhi đồng nứt bể, búi tóc trên đầu văng mất, thần tượng nữ bái vật cầu tài đầu đứt tay gẫy, cả những cung phi nàng hầu và bầy thú bằng đất nung cũng đổ vỡ văng đi mỗi thứ một đường. Dòng điện cuồng nhiệt luồn lạch vào phá họai mọi tế bào của thân gỗ, nó chạy theo độ ẩm là chất dẫn điện là nhựa sống của cây me Tây to lớn để hủy diệt. Moi việc diễn ra trong chớp nhoáng và kết thúc nhanh chóng. Cây me Tây xanh rậm đầy nhưạ sống bị sét đánh chết trong lúc cành lá còn xanh mượt, mặc dù lá non đang trong thời kì phơi phới sinh trưởng, nó chết trong lúc cuộc sống còn tiếp diễn, một cái chết dứt khoát đáng kinh hòang.

Hiện tượng này diễn ra trên bản ‘Nỏong khảm’ nó xẩy ra trong lúc sự chia rẽ của dân chúng lan tràn trên cả nước, trong lúc những điềm gở đã cảnh báo sự hoang tàn man rợ, những sự vịêc không lành đang lan truyền trên từng ngọn cỏ, trong lúc tiếng khóc than cuả sự chia li đang gầm thét rùng rợn, trong lúc bản Noỏng khảm bị chia ra làm hai phần là Noỏng khảm bắc và Noỏng khảm nam, có ngôi chùa ‘Thê-pha-ni-vát’ đứng chắn ngang ở giữa.  

Kể từ thời xa xưa, người đến sinh cơ lập nghiệp ở bản Noỏng-Khảm không tới mười hộ gia đình. Địa hình là đồng bằng trũng thoai thỏai sườn đồi, có khu rừng phì nhiêu bao quanh đầm nước thên nhiên rộng lớn, nước sâu và lạnh ngắt. Giữa đầm có cây Sao đen to lớn chết đứng trơ trọi, cành nhánh xạc xơ còn mênh mông rộng lớn từ bấy lâu nay, những cành lớn bị thiêu đen bởi tia chớp không có dâú hiệu gẫy nứt tỏa thành vòm rộng bao trùm mặt nước đen đặc lúc động cơn mưa và soi hình thành đôi cây khi tiết trời trong xanh, trông như một nhạc trưởng đã giải nghệ   đứng điều khiển dàn nhạc với tư thế nghiêm nghị giữa đầm. Trong đêm tối bàn tay của đêm đen càng như kiềm chế mặt nước giá lạnh thêm thần bí. Dân bản ở đây dùng nước từ con kênh đào để dẫn nước tưới cánh đồng chiêm vào vụ nắng, chỉ vài chục năm trở lại đây con kênh đào được mở rộng để đáp ứng nhu cầu cho hàng trăm gia đình di cư tới khai hoang lấn chiếm đất đai làm ruộng rẫy.  

Bản Nỏong-Khảm trong quá khứ đã bao trùm bởi truyền thuyết. Bà “Khăm-Phản” mụ phù thủy cuối cùng của bản đã hơn trăm tuổi hộc máu chết và để lại lời nguyền rủa khi người cháu gái lí tưởng của bà được đặt hi vọng thừa kế phù phép chạy theo trai trong làng. Mụ phù thủy kẻ có thần chú kiềm chế dục vọng không thể hãnh diện trước sự đâm xoi của dư luận về việc làm đáng hổ thẹn của cô con gái, lời mỉa mai được truyền miệng từ người này đến người khác đã lọt vào tai bà như một lọai vi trùng độc hại. Mụ Khăm-phản tức dận cực độ, với sự hằn thù mụ căn dặn họ hàng, khi mụ chết phải chôn xương dưới gốc cây Sao đen cho bằng được. Cái chết của mụ được trù bị một cách che đậy đầy đen tối. Tiếng niệm thần chú của mụ vang vọng qua không khí mùa hè đã làm lên nhịp điệu, lúc dằn dỗi, lúc buồn sầu nức nở trong đêm vắng, miệng bà tuôn ra những lời lẽ súc sinh, dọng trầm bổng nghiêm linh càng thôi thúc dục dã khi trời hửng sáng, đoạn thần chú  chấm dứt bằng tiếng rít thất thanh, tiếng rít xé màn đêm xen trong bầu không khí rùng rợn làm cho con thơ bé nhỏ không ngủ được, khóc nheo nhóc náo động cả xóm làng. Mụ Khăm-phản đã chết một cách khổ cực mụ mang theo mối hận thù sâu sắc.

Sau khi xác mụ được chôn dưới cây Sao đen chẳng bấy lâu, một cơn giông mùa hạ đã phát hiện trên bầu trời bản Nỏong-khảm, cây Sao đen bị sét đánh nhiều lần, với mưa bão tầm tã nhiều ngày đã gây ra lụt lớn, may ra vị trí của bản nằm trên đồi cao nên đã thóat khỏi sự thiệt hại của lũ lụt. Nước lũ lênh láng thung lũng Sao đen và ứ đọng như thế. Sự sợ hãi của người Nỏong-Khảm trước lời nguyền rủa của mụ đã gây nên hoang mang mất hết tinh thần làm ăn, gây tình trạng rệu rã trong dân chúng, họ hết chỗ dựa về tinh thần, mãi khi có người dũng cảm nêu ra việc đón sư về lưu chùa che chở cho dân để hồi phục lại lòng tin và an ninh cho bản làng 

 

Thế giới dưới tầm nhìn hẹp hòi của bà “Dưỡn” đã trải qua 96 năm rồi, trong khi bản Nỏong-khảm được thay đổi một trời một vực so với cái nhìn của bà. Con mắt bên trái của bà bị mù hẳn từ lúc bước vào tuổi 78, phần bên còn lại cũng chỉ tạm nhìn thấy, mặc dù ban ngày bà còn nhìn rõ, nhưng về đêm bà chỉ là một mụ già có đôi mắt mờ ảo, bà chỉ nhìn thấy bằng gang bằng tấc trong đêm trăng lặn. Do không thấy rõ những gì ở phía trước khiến tâm hồn bà phải du hành tìm về quá khứ, nhằm đi sâu để tham dò và tiếp xúc với sự kinh hòang với những chuyện hoang đường từ xa xưa, đối với bà tất cả đều mang lại sự hãi hùng không suy giảm.  

   

Bà là người cao tuổi nhẩt trong làng lúc bấy giờ, người cùng lưá tuổi đã lần lượt chết trong thời gian gần nhau mà không biết lí do, bà Dưỡn không có điều kiện đưa đám của những người đó vì lí do sức khỏe. Sau khi mụ Khăm-Phản mất, bà Dưỡn sống cách biệt, bà luôn liên tưởng đến tội lỗi của đứa con trai út của bà, bởi nó là đầu têu làm cho mụ phù thủy già buồn phiền khổ tâm mà chết. Sự hằn thù làm cho mọi sự thay đổi, sự thay đổi đã diễn ra những điều mới lạ chồng chất trong làng và cướp đi sự yên lành của làng xóm, nó là lời nguyền còn chứa đọng trong từng hơi thở của bà Dưỡn. Việc bà còn sống đến hôm nay chắc là để làm nhân chứng của sự sụp đổ đang diễn ra, bà nhận thức rõ nguy cơ trước mắt, bà đã ý thức rằng, bà là kẻ bị thời đại bỏ quên, như bộ rễ cây lỗi thời từ quá khứ ăn sâu vào lòng đất điểm nối liền tương lai, gây lên sự chướng tai gai mắt của lớp người mới.

 Bà Dưỡn bị bỏ quên khi còn sống hiện diện trên đời, thể xác của bà như mảnh giấy mỏng manh dễ rách nát, đầu bạc trắng tóat của bà hình như đã ngừng bạc, sợi cứng và thô ló khỏi da đầu chỉ dài bằng đốt ngón tay, da thịt đều nhăn nhó, thân xác chỉ còn lại nắm da bọc xương. Gia vị thức ăn quá nhạt nhẽo do thần kinh lưỡi không còn trung thành với bà nữa, bộ thần kinh nhậy cảm đã suy yếu. Giờ đây bà như một chiếc máy cũ kĩ làm việc cộc kệch chậm chạp đang chờ ngày phế bỏ. Làn da bà nhăn nhó, mạch màu nổi cồm chằng chéo, bộ xương gầy guộc mục ải đến mức khó cử động được, mình mẩy bà tọp teo trông như người còi cọm, bà không thể nâng bộ xương sống đứng thẳng được, xương sống của bà đã rạp xuống song song với mặt đất, bà cảm thấy mình không là con người nữa, bà cũng chẳng nghĩ mình là con vật mà nó chỉ là một cái gì có sự sống, nó cử động lề mề đến bực mình, nụ cười trên môi đã khô cạn từ  bao lâu bà không còn nhớ được, nụ cười tràn đầy hạnh phúc đã nở trên bộ mặt của bà lần cuối cùng từ bấy lâu bà không có đều kiện để nghĩ đến nó.

Hòan cảnh bà Dưỡn nghèo xơ xác, chỉ có dòng nước mắt chảy mãi ngày đêm, mà bây giờ nườc mắt cũng đã khô cạn, dù có chảy được cũng là điều khó nhọc, những nếp nhăn trên mặt bà là nơi chứa đọng dòng nước mắt và khô đi trên những nếp nhăn ấy, đã nhiều khi nỗi buồn tắc nghẹn trong lòng bà muốn được giải bày, dù bà cố nặn nhưng dòng nước mắt vẫn ứ đọng trong nỗi đau buồn. Chồng bà đã mất từ 30 năn về trước, phần cô con gái đã lấy chồng với người khác bản, họ có nhiều đất đai, tuy thế con cháu bà vẫn bỏ đi làm việc trong Bang-Cốc, đến vụ mùa chúng nó mới kéo nhau trở về chung sức cày hái, xong vụ họ lại di cư đi vào thủ đô. Con gái của bà tuổi tác đều già cả, mỗi đứa đã sáu bảy mươi rồi. Bà dựng nhà ở với người con trai thứ tư cuối bản Nỏong-khảm Nam, ngôi nhà sàn bằng gỗ lợp tôn cao ráo, được dựng trên diện tích đất khỏang chừng một ‘Rẫy’ rưỡi.  Bà phải leo thang đến bảy tám bậc lên xuống, nên người con trai đã đan liếp quây thành buồng, có cửa ra vào cho bà nằm dưới nhà, cậu con trai đã “sử dụng quyền chính đáng” nằm một mình trên tầng, bà Dưỡn cũng chẳng phàn nàn gì, bởi đó là sự thuận tiện thỏai mái của bà, Nhưng điều ấy làm nhiều láng giềng chê bai trách móc, họ cho đó là nhiệm vụ canh phòng cho cậu con trai cưng của bà, họ cho bà là kẻ lắm tội nợ.

Đọan đường từ nhà ba cô con gái đi đến nhà bà chừng hai trăm bước, nhưng không biết đã bao lâu rồi mấy cô con gái cũng chẳng một lần đến thăm bà, nhiều khi bà Dưỡn phải ngậm ngùi một mình, điều trầm uất luôn vẫn vương bên bà, đã không biết bao lần lòng bà rối bời đau xót, nỗi nhớ thương con không thể cầm lòng được. Cuộc hành trình gian khổ lại diên ra, hai trăm bước đối với người bình thường khỏe mạnh thì chẳng có gì là khó, nhưng đối với bà so được bằng bốn trăm bước của người ốm đau như bà, hơn thế bốn trăm bước của bà còn mệt nhọc đến đứt ruột. Bà đi đâu cũng phải chống chiếc gậy mây như một bộ phận của cơ thể vậy, chiếc gậy đã giúp bà trong nhiều việc, bà biết rõ đến sự quan trọng của nó, dù nó là chiếc gậy không sự sống, nhưng nó là một bộ phận của cơ thể bà, nó còn vững chắc hơn cả bà nữa. Thân mây màu đen bong nhóang do phương pháp nung lửa và tẩm nước thuốc của cậu con trai. Chiếc gậy    cứng rắn và có chất lượng ấy đã nhiều năm giúp bà chống đỡ khi đôi   chân bà mềm yếu hoặc khi đôi chân không chịu nghe bà.

Thường ra bà không mấy khi nhấc chân đi đâu xa nhà, bởi bà chẳng có công việc gì với ai hay chẳng ai có việc gì với bà. Cuộc đời bà ngòai sự thương nhớ ba đứa con gái thương yêu, đã trở thành động lực để bà gắng sức đến thăm, được nhìn thấy con qua đôi mắt mờ quáng trong lúc bà còn nhìn thấy được là điều hạnh phúc. Chẳng ai một lần chợt nghĩ tới bà, đàn con đàn cháu đã bỏ quên bà rồi, ba cô con gái cũng thế chúng nó đều già cả đau ốm thường xuyên, dù chúng nó có khỏe mạnh, việc đi thăm mẹ cũng là vấn đề cần thiết sau cùng, đến thằng con trai đang sống dở chết dở đấy cũng chẳng nhờ cậy được. Lí do làm cho nó trở thành kẻ mất trí ba ngày lành bốn ngày đau đã làm bà nhớ lại hai mươi năm về trước khi anh còn trẻ, con trai bà coi rã cũng đáng khen, anh vừa lo xây dựng tương lai vừa tự nguyện trông nom mẹ già. Bà Dưỡn từng tự hào với Tủ-Lit anh là người siêng năng. Anh Lít thích học giọng thuyết minh xi nê chiếu ngoài trời nên được Dân làng mệnh danh gọi anh Lít là Tủ-lit, nhóm trẻ cho anh là cái loa di động, chúng thường túm lại nghe anh thuyết minh phim, nên anh Lít được gọi là Tủ-Lít đến quen mồm.

Khi tia sang đầu tiên xua đuổi màn sương đêm nhá nhem trên cành lá, đàn chim náu mình trong lùm cây rậm hoặc trong bụi tre rừng đã cât tiêng kêu rộn rã, Tủ-Lit đuổi đàn trâu hướng lên nương, băng đến đồi “Véng”, ở đây có nhiều cỏ non, ngọn cỏ phất phới dưới làn gió êm dịu trông như thảm dệt, anh thả cho chúng tự do gặm cỏ, ba con trâu mộng mang tên chú Mã-lom, chú Kẹo và chú Thú, ba con đã thay nhau kéo cày rất chịu khó, vụ mùa cho đến vụ chiêm, rẫy đay cho đến rẫy ngô rồi luống rau luống cải chúng nó đều đảm nhiệm, còn lại là công việc cuả hai con trâu cái sừng dài đẹp uốn cong, một con trâu bạc một con trâu đen, hai con đã mang tên theo màu da của nó, nó đã sinh hai lứa con rồi. Nghé con  đã đến tuổi xỏ mũi, chị gái anh đến xin về nuôi để làm việc, anh em ở xa  đến mua về nuôi Tủ-Lit cũng không tiếc giữ, miễn là đừng đem về mổ thịt bán là được. Tủ-Lit rất quý ba con trâu mộng, đặc biệt là con Mã-lom nó là con trâu lai màu đen nhọ to cao khỏe mạnh, cổ mập, bắp chân lực lưỡng to khỏe cân đối, bộ sừng ngắn của nó vòng về phía sau thành vòng tròn rất lạ trông như sừng dê, nó bất kham nhưng rất ham công việc, nó hay hồi hộp khi thấy trâu khác đàn, nhưng luôn nghe lời ông chủ Tú-Lít, đối với anh thì nó hiền như con mèo. Phần chú Kẹo là con trâu bạc rất háu ăn lúc nào dạ dày cũng căng mộng, nó háu việc như thể sự háu ăn của nó. Kể cả chú Thú, một con trâu lùn lực lượng sừng gẵy một bên trông đến kì dị, bởi nó lùn bè bè thêm vào đó mồm nó thường xuyên xùi bọt, chú Thú hay dùng cái lưỡi màu tím đùn ra đùn vào hai lỗ mũi của nó, càng lúc buộc ách vào cổ, bọt mồm và nước dãi cứ chảy dòng dòng đến dễ sợ, nhưng Tủ-lít đã rất quen thuộc vơi cử chỉ ấy của chú Thú.

Thời trai tráng, nhà của Tủ-lít và bà Dưỡn có thóc đầy bồ có ngô phơi đầy bãi, đến mùa bán đay Tủ-Lít dậy thật sớm ra nương, anh nhởn nha chặt đay, đôi khi xong công việc trong ngày, lúc chiều tà Tủ-Lít thường lấy được tổ ong ruồi bám ở cây đay, anh ngôi trên lưng chú Mã-Lom đem về vắt mật cho mẹ uống sau bữa cơm chiều. Chỉ trong mấy ngày đay đã chặt xong, anh buộc đầu buộc đuôi thành từng bó rồi đưa ra ngâm trong con kênh đào, nước ở đây một phần được dẫn vào từ đập nước, một phần do dự trữ nước mưa nên quanh năm nước đầy ắp con kênh, đay được ngâm cho đến khi tơi vỏ, Tủ-Lít huy động người làng đến lột vỏ, buộc đầu lại vắt phơi lên sào tre, chỉ phơi vài ngày nếu được nắng  là khô. Trong lúc chờ đay khô Tủ-Lít đóng cọc dăng dây ba sợi đan chéo nhau dài theo mặt đất có khỏang cách vừa tầm ít nhất chừng khỏang mười mét, anh lần lượt xếp sợi đay khô từng bó một cho đến cuối sợi dây, rồi  lại bắt đầu xếp lên thành lớp chừng hai ba lớp, ước chừng nặng được nửa tấn, sau đó lăn thành cuộn tròn rồi vặn sợi thừng thật chăt như buộc bánh chuối để chuẩn bị đem đi bán.

Bước ngoắt nguy kịch đã xẩy ra trong chuyến anh vận tải đay lên huyện bán, Tủ-Lít phải lòng cô gái làng kề, chưa tơí một năm anh đã cưới nàng và đưa cô về ở trong nhà, Bà Dưỡn không ưa cô con dâu cho lắm, nhưng cũng chẳng có ý kiến gì bởi bà chẳng muốn làm mất lòng cậu con trai, bà đã cố dấu sự lo âu cuả mình. Cô con dâu của bà liu manh bịp bợm, cô thich ăn diện nhưng không chịu xuống đồng dầm mưa dãi nắng cô chỉ làm việc lặt vặt trong nhà, bà cũng biết là cô con dâu chẳng ưa gì bà, do nể con trai nên bà phải chịu đựng, mặc dù đã nhiều lần bị con dâu bóng gió va chạm, bà Dưỡn nán lòng nuốt điều chua chát, bà biết cậu con trai say đắm cô vợ của anh, đã nhiều khi anh tỏ ra bực dọc vơi mẹ vì những chuyện vụn vặt nhỏ nhoi mà trước đây anh không như thế. Nụ cười của bà đã biến mất, gương mặt tươi tắn trước đây đã thay bằng gương mặt u sầu đau khổ, bà Dưỡn chẳng trách ai, đâu như bà đã đầu hàng trước số mệnh mình. Nhiều lần bà lo âu với lời nguyền rủa của mụ phù thủy Khăm-phản, với lo âu đó bà luôn nghĩ rằng, hậu quả của lời rủa đã làm cho vợ Tủ-Lít bỏ chồng chay theo ông thầu khoán dựng cột điện trong làng. Ả ra đi đã mang theo số tiền Tủ-Lít dành dụm, anh đặt kế hoạch mua đất dựng nhà và mở cửa hàng tạp hóa nho nhỏ để thôi hẳn nghề nông khó nhọc theo yêu cầu của vợ, số tiền ấy do anh bán đất và đàn trâu cày yêu thương của anh. Sau khi vợ chạy theo tình nhân Tủ-Lít đã quyết định bán rẫy ngô mảnh đất to bằng bàn tay, đây là mảnh đất cuối cùng để làm ăn ở sau nhà, anh còn bán mọi tiện nghi trong gia đình để lấy tiền đi Bang Cốc tìm vợ, để bà mẹ già ốm yếu một mình ở lại, anh đi hàng năm vắng biệt, không một ai nhúng tay vào giúp bà hoặc để tâm để ý với cái chuyện không hay đã xẩy ra, kể cả ba cô con gái của bà. Hàng xóm coi cái chuyện đó là điều đáng hổ thẹn và tổn hại thanh danh cũng bởi cái chuyện đó mà ba cô con gái đã từ chối liên hệ với bà, nó trở thành chuyện khúc mắc giữa mẹ con, mối quan hệ mẹ con đã lạnh nhạt lại càng ghẻ lạnh hơn lên, trái tim bà vô cùng nhức nhói, ánh mắt mơ hồ của bà đã mất hết nghị lực.

Một năm sau, trong đêm mưa to gió lớn bà không dám leo thang lên   nhà trên, bà già chỉ nằm co mình dưới gầm nhà, tiếng gió rít, sự dật dữ  của ánh chớp như thôi miên thể xác bà, nó gầm thét, nó hăm dọa làm cho bà càng co rúm lại, bà Dưỡn trùm mình bằng miếng vải mỏng và dúi mặt vào giữa hai đầu gối. Chú Thú cất tiếng thở phì phào trằn trọc trong chuồng, nó là con trâu mà không ai muốn mua, phường lái không thích cái lùn sát đất của nó, đây là một gánh nặng quá tải đè lên bà Dưỡn trong việc phải chăm nom nó, chú Thú rất cô độc khi phải ở một mình, chú là con trâu háu việc hiếm có, khi không được buộc ách vào cổ trong vụ mùa nó bồn chồn bực bội, dù hình vóc xấu xí nhưng nó rất sung sức nó   không thua một con trâu tơ nào trong làng, nó không chịu nghe ai ngòai Tủ-Lít, đến cả bà Dưỡn nó cũng tỏ ra lì lợm. Chú Thú từng bỏ té chạy ra khỏi chuồng giữa đêm tối bởi có Trăn bò vào quấy nó, nhưng chẳng bao lâu nó lại về chuồng và trở thành con trâu khó tính. Chú Thú đã từng lôi bà Dưỡn ngã toạc cả chân tay, nhiều khi bà già không chịu thả nó ra khỏi chuồng, bà gặt cỏ mọc gần cạnh nhà cho nó ăn và xách nước cho uống tùy sức bà làm được.

     Trời còn đổ mưa như trút nước, sét đánh xuống đâu đây như  không  xa lắm, bà Dưỡn ngồi run rẩy dưới gầm nhà bên chuồng trâu, chú Thú hoang mang sợ hãi xem nó thật lạ như biết trước điêu gì không lành sẽ xẩy ra. Giữa cơn dông ấy Tủ-Lít đã trở về, anh Lít băng cơn mưa về  đến nhà giữa đêm khuya với thân hình của một người mất trí, quần áo rách nát tươi tả, đầu tóc lùng nhùng bối rối râu ria bờm xờm, đôi chân anh trần truột, anh đi từ đâu về không ai biết, nhưng lúc này anh đứng yên giữa sân nhà không lo sợ trước cơn dông tố điên cuồng, ánh chớp lòe sáng phản ảnh đôi mắt cứng đở trợn ngược và bộ mặt gầy tọp với quai râu bờm xờm Tủ-Lít đứng yên một chỗ suôt đêm, thách thức cơn mưa to gió lớn.

 Bà Dưỡn được biết con trai trở về khi trời đã sáng, khi cơn dông đã tàn. Nhận thức của Tủ-Lít bị lạc lộn không như trước nữa, coi như bà Dưỡn đã mất hẳn đứa con trai vĩnh viễn, Tủ-Lít nằm dường liệt chiếu hàng tháng bà Dưỡn phải chăm sóc đứa con trai một cách cô đơn, bà dùng các thứ thảo mộc, thuốc trắc, thuốc chờm theo sự hiểu biết chắp vá của bà để chạy chữa cho con. Bà Dưỡn đã hết nơi nương tựa, gương mặt bà không chỉ đã thể hiện dấu vết già nua, giờ đây mặt bà còn đen xạm mang nhiều lo âu, là gương mặt chứa đựng nỗi đau khổ quá nhiều làm lắm kẻ khó cầm được nước mắt khi gặp bà.

 Tủ-Lít hết cơn mê sảng do bệnh họan đã khỏi, con trai bà Dưỡn lại bắt đầu đi bộ, những chuyến đi này anh không vượt ra ngòai phạm vi của làng, anh đi từ đầu làng đến cuối làng mỗi ngày được nhiều vòng, khi anh rải bước trên đường làng miệng anh luôn lẩm bẩm đến vợ, đôi khi anh còn uốn giọng con gái để đối đáp với mình. Có ngày anh đã nhốt mình trên tầng nhà chẳng nhích chân đi đâu, tài sản cuối cùng của anh là ngôi nhà và mảnh đất chỉ bằng bàn tay cũng đã suy đồi hết sinh động, đôi khi anh đứng nhìn con trâu cuối cùng với đôi mắt dận hờn như muốn ăn   sống nuốt tươi nó, ngày nào Tủ-Lít lên cơn nặng, bà Dưỡn chỉ biết ngồi co dúm trong buồng dưới gầm nhà vì run sợ. Chém nó! Giết nó! Chém nó! Tủ-Lít hô hào cầm con dao rựa chạy xuống chuồng trâu trong đêm gió bão sao sa hòanh hành, gió cuốn đi cả mái nhà, nhiều nhà bị gió thổi lốc mái. Tiếng căm thù hờn óan như đã từ bao đời, chú Thú gầm gừ vung lên lồng lộn để tránh thần chết từ trong tay ông chủ của nó, lưỡi dao băm vào làn gia thô sạm của chú Thú không chùn tay, thớ thịt xé rách tung tóe giữa mùi tanh nồng của máu, Tủ-Lít gầm thét dận dữ khi căt cổ con trâu thương yêu của mình, nó không còn lối chống cự. Tiếng dao sắc băng qua màng thịt, tiếng băm xương bùng bục đã xúc phạm bộ thần kinh bà Dưỡn, tiếng bà kêu thất thanh đau đớn, trái tim bà như rạn nứt, như giá trị làm người của bà bị xúc phạm từ đó. Tủ-Lít cười sặc sụa điên cuồng và thắng lợi, anh vất dao xuống đất khi đầu con trâu đứt ra khỏi cổ, hai tay cầm hai cái sừng cùn ngắn của nó dơ lên quá đầu điên cuồng gào thét vô cùng hả lòng hạ dạ, máu từ cổ con trâu chảy xuống gương mặt Tủ-Lít, anh thè  lưỡi liếm máu vào mồm như kẻ khát máu. Ánh chớp lập lòe liên hồi, trong khỏanh khắc bà Dưỡn nhìn thấy gương mặt cậu con trai hiện lên trong ánh chớp giật và mất đi trong bóng tối, cứ như thế bà thấy bộ mặt của người con trai méo mó bỉu môi cười khẩy, trông như con yêu tinh đang uống máu để chữa tâm thần bất định của mình. Đồi với Tủ-Lít khi anh đứng sừng sững trong chuồng trâu, nâng đầu con trâu Thú bằng cánh tay run rẩy, anh coi đó là cái đầu của người vợ yêu dấu kẻ ham muốn tình dục, người đã làm cho anh tối mắt vì tinh yêu, Tủ-Lít cảm thấy ngón tay của mình đang cấu vào da đầu của người con gái đa dâm, anh thấy đôi mắt trợn ngược kinh hòang của con trâu Thú thành đôi mắt trợn ngược kinh hoàng của cô nàng lang chạ, thấy cái lưỡi tím lè ra bên mồm của nó là cái lưỡi của người vợ dâm đãng. Tủ-Lít cười sặc sụa, mặt mũi mình mẩy ướt sũng máu, anh nuốt máu đang tuôn chảy của con vật như đang uống rượu thần, ăn thịt sống như ăn món thịt từ cõi tiên với sự tọai nguyện và hả lòng căm dận.

 

Sau cơn khủng khỏang qua đi, sau khi cắt cổ con trâu Thú  thân thương trong đêm xẩy ra cơn bão sao sa ấy, Tủ-Lít bần thần giảm sự  hung giữ xuống, xem như sự hung giữ đã tan biến một cách đáng ngạc nhiên, anh đã tỉnh ngộ lại. Tủ-lít lại chăm sóc bà Dưỡn như thường lệ,  giờ đây anh không làm ruộng rẫy như trước nữa, anh gánh nước bổ củi bình thường, anh trồng ớt trông chuối rau dưa đủ sống hai mẹ con, đôi khi anh cũng đi cuốc cỏ làm thuê trong nương rẫy của hàng xóm, hôm nào bệnh não của anh chớm phát hiện, anh Tủ lại thẫn thờ giữ mình trong buồng ngủ, cứ như thế đã bao nhiêu năm. Hai mẹ con đâu có thỏai mái trong việc sinh nhai như trước, ngược lại đời sống càng thêm chật vật. Bà Dưỡn vẫn gánh vác nỗi đau khổ, nhưng cũng đã nguôi đi rất nhiều bởi không phải lo âu đến vấn đề nổi cuồng của cậu con trai, sau đêm đó sự việc đã yên bình chẳng có gì đáng lo sợ.      

 Giờ đây, khi làng bản đổi thay bà Dưỡn vẫn chìm đắm với cuộc sống cũ kĩ của bà, cuộc sống khổ sở gian truân mà bà chẳng đếm xỉa gì đến thân mình đang ngày càng suy yếu. Những chuyện lo âu tích lũy   trong lòng đã trở lại ám ảnh bà lần nữa. Tủ-Lít bao năm im lặng anh đã nói với mẹ, anh nhắc đến một cách không kèn không trống về cụ thầy phù thủy “Phá-Kham” một cố phù thủy nổi tiếng về phù phép, Tủ-Lít kể lại giấc mộng như đã diễn ra trước mắt về mụ Khăm-Phản, một đồ đệ ngòai khuôn phép của cụ thầy Phá-Kham, giấc mộng đã gây hoang mang về   lời nguyền của mụ Khăm-Phản, nó sẽ trở thành hiện thực một ngày không xa, mụ già cuối cùng của bản làng sẽ chết tươi một cách kinh hòang, sự khủng hỏang sẽ xẩy ra ngay trên bản làng và mảnh đất này sẽ sục sôi cảnh nước sôi lửa bỏng, Tủ-Lít cứ nhấn mạnh với mẹ như bị nhập đồng,  linh hồn của cụ thầy Phá-Kham đã nhắc đến nguyên nhân của điều không lành sẽ xẩy ra. Linh hồn của cụ thầy đã cảnh báo, sự việc hãi hùng sẽ xẩy ra từ phù phép súc sinh, kiến thức mà mụ Khăm-Phản học mót đã vi phạm điều cấm của phù phép, mụ  đang sử dụng phép thần chú súc sinh để trả thù. Giấc mộng của chàng trai mất trí có thể bị thiên hạ phỉ báng, nhưng đối với bà Dưỡn thì đây là một lời cảnh báo tuyệt đối quan trọng, bà cảm thấy rùng rợn, tiếng nói bà rung động bà chắp tay vái quá đầu. Tủ-Lít lại kể, trong cơn mộng ông cụ Phá-kham cho phép anh đi   lấy một thứ vũ khí linh thiêng, nó có phép thần thông để bảo vệ những điều tà ác cho mẹ anh. Bởi thế đến ngày lễ phật trăng treo 23 âm lịch Tủ-Lít đã ra  đi từ sớm, anh hướng về nơi ông cụ già Phá-Kham chỉ dẫn trong giấc mộng, anh đi về phía trước một cách mơ mộng, có đôi mắt mờ quạng của mẹ già lưu luyến trông theo.

Tình thế này bà Dưỡn phải đề phòng nghiêm ngặt, bà là đối tượng trong lời nguyền của mụ Khăm-Phản, mụ đang tìm cơ hội để cướp linh hồn và tính mạng của bà, nhiều lần bà Dưỡn hoang mang với những điều xẩy ra quanh mình, bà như cảm thấy luôn luôn có đôi mắt của đêm tối chằm chắm nhìn ba, mọi biến động quanh mình bà phải đề phòng cẩn mật, sự cảnh giác ấy đã làm bà phải nghĩ xa nghĩ gần. Đống quần áo cửi ra để trong hộp dấy, có thể con Bò cạp đã ẩn mình làm tổ, khi bà bới quần áo đi giặt con bò cạp sẽ dung nọc độc ở đuôi nó đốt bà, chỉ một lần bi  đốt có thể hại đến tính mạng, mọi điều quanh mình đều nguy hiểm, con nhện độc dăng dây bắt mồi bên vách nhà cũng thế, trong lúc bà men vách quờ quạng dìu mình đi lại nó có thể cắn vào tay bà, nọc của con nhện độc đó có thể làm bà tê dại, tim ngừng đập tức khắc, làm bà ngã xuống đầu chấn đất, nếu không chết ngay bà cũng có thể nằm cứng đờ không thở được, bà sẽ chết một cách đau khổ và thê thảm, vạt cỏ trong vườn chuối ấy nữa, khi bà vào cắt hoa chuối về thái làm gỏi cá lùi, khi bà vào lấy lõi chuối về nấu canh, con rắn độc khát máu có thể đang yên lặng nằm chờ, nó sẽ bò qua chân mà bà không biết, nó chờ đợi cơ hội để cắm cái nanh cong hoắt  vào cổ chân bà, nếu con rắn đó là con hổ mang đang ấp trứng, nó có thể mổ bà giữa trán, đến khi bà ngã xuống nó vẫn chưa hài lòng, nó nghĩ  rằng tao có thể ăn con già này được không nhỉ ? máu thịt nó có ngon hơn những con rắn khác mà tao đã quen ăn không nhỉ ? Khi không ăn được cả người nó có thể mổ ăn mắt bà, nó cố nuốt một cách nhồm nhòam, kể cả con trăn đã bò vào chuồng quấy nhiễu con trâu Thú khi nó đang còn   sống nữa, chắc đang quanh quẩn trong vạt cỏ đâu đây, nó có thể tình cờ bò đến gặp bà trong lúc bụng đang đói meo, nó leo lên cây trên đầu bà với ác ý, khi có cơ hội nó sẽ dùng đuôi cuộn vào cành cây và từ từ nâng cao cái đầu thô kệch thả mình xuống há mồm nhe nanh sắc nhọn cắn vào cổ bà, bộ hàm sung sức của nó sẽ  day đi day lại nghiền nát xương cổ bà trong chốc lát, sau đó nó sẽ thả cái xác nặng trĩu xuống đè lên cái thân đã đứng không vững của bà, bà không gượng nổi sức nặng của nó ngã sập xuống, nó sẽ cuộn chặt thắt quấn mình làm xương xẩu bà tan nát, khi thấy bà lặng yên không còn sức chống cự, con trăn nhả bộ răng nanh ra khỏi cổ để nuốt chửng cái đầu và dần dần nuốt cả thân bà xuống bụng, trong lúc bà còn ngấp ngóai, đôi mắt vẫn còn trợn ngược. Cuộc giết chóc tàn nhẫn tiến hành một cách chậm rãi, mãi đến khi thân mình của bà bị nuốt xuống bụng, dịch vị của nó sẽ hòa tan da thịt xương xẩu bà, sao kinh sợ đến thế, sao khủng khiếp đến thế !

Bà Dưỡn lặng yên trong cơn rùng rợn, bà lo sợ mọi tai họa mà bà liên tưởng đến, bà ngồi run rẩy một mình, bà nhớ đến người con trai. Nhiều ngày trôi qua, bà Dưỡn ngồi yên như pho tượng, bà đưa mắt qua dòng nước mưa mờ nhạt. Trời mưa liên tục ba ngày liền, vạn vật như bị thôi miên. Con gà sống đuôi vàng màu hoa mướp đứng chùn cổ im lặng run rẩy, bộ lông cổ màu xanh xẫm ướt đẫm, cử chỉ của những con gà khác cũng không khác gì. Lâu lâu con sáo có cánh màu nâu sẫm xen trắng, lượn từ cây Cóc xuống đất được ít chút rồi bay lên cây Làu tàu gần đó, trên bầu trời không có lòai chim nào bay lượn như thường ngày, cảnh tượng buồn bã, bầu trời trở thành màu nâu xẫm. Đã nhiều chục năn rồi  bà mất liên hệ với thế giới bên ngòai, ngôi nhà gỗ cũ kĩ không có TV, không có máy thu thanh, không có tiện nghi bằng điện nào để phục vụ  bà, ngòai cai bóng điên Ni-ông độc nhất bám đầy màng nhện và bụi bặm đã tỏa ánh mờ nhạt. Bà không thấu hiểu được rằng, cái làng mà bà từng sống từ khi cha sinh mẹ đẻ, giờ đây đã bị chia đôi thành Nỏong-Khảm nam và Nỏong-khảm bắc, bà được xếp thành người Nỏong-Kham nam mà không hề hay biết. Bà có biết về nguyên nhân làng bản bị chia đôi   bởi người dân tứ chiêng đến định cư ngày càng đông đúc, số hộ gia đình tăng lên đến mức đã chia thành bè thành phái, người thế hệ mới đang ngấm ngầm cạnh tranh về mối lợi. Bản làng đột nhiên có tiền triệu (Bạt) rơi xuống, bà có hiểu đâu tiền triệu đã làm cho làng bản xung khắc, họ cạnh tranh điều hành quản lí tiền triệu và kết thúc bằng việc chia cắt bản làng ra làm đôi, với hi vọng để tiền rơi xuống mỗi làng một triệu cho thỏa mãn lòng tham của họ. Bà có biết đâu sau đó không lâu, mỗi hộ gia đình đều mang nợ tùm lum như tổ đỉa, dân làng cơ cực hơn trước nhiều. Bà cũng chẳng rõ về cái tiếng oang oang thành nhịp điệu, thành bài hát lạ tai vào lúc thắp đèn đỏ lửa đây đó nó phát sinh từ đâu? cái tiếng có nhip điệu bài hát và kết thúc bằng tiếng A-lô, A-lô choang chỏang nó là cái gì bà cũng chẳng biết. Bà còn ngờ rằng đã nhiều tháng nay sao sư không xuống cầu khất như thường lệ, một lần nữa cũng đến nhiều ngày bà Dữơn phải chào bán cái chum đỏ hứng nước mưa để uống vào mùa hạ chiếc thứ hai để lấy tiền mua gạo ăn, bà cũng không hiểu được rằng, bởi sao gạo nấu ăn lại đắt đỏ như quế vậy. Bà Dưỡn chắp tay trước mặt đứa trẻ tuổi chắt, người chuyển gạo đến cho bà, bà trào nước mắt méo mó nói. Trước đây sao chẳng đến nông nỗi này nhỉ, bà xin lỗi con cháu, xin cho bà nhờ cậy với nhé, xin cho con cháu phát đạt hơn lên, bà chắp tay vái lia lịa sau khi phải đi bộ một chặng đường dài để xin mua gạo với xóm giềng người có đất làm ruộng. Bà có biết đâu thóc của ba cô con gái đóng trong bì phân vô cơ chất đầy kho đến hai ba trăm bì, bà không hiểu rằng phần thóc thừa ở đáy kho của ba cô con gái cũng đủ để bà ăn quanh năm. Giờ đây bà Dưỡn có gạo đầy thùng và một chiếc chum đỏ còn lại. Thời kì bà Dưỡn đi xin mua gạo của hàng xóm cũng là thời kì bà Dưỡn không được bỏ âu khất nhiều ngày. Bà có biết đâu ông sư cả chùa Thê-pha-ní-vát rất không hài lòng về việc bà con Nỏong-Khảm nam không quan tâm bỏ âu khất cho sư. Ông sư cả dẫn cơ thể già nua đi mua nợ thuốc lá và cà phê ở cửa hàng tạp hóa bản Nỏong-Khảm bắc, vị sư là khách lọai ưu của cửa hàng, vị đã mua chịu đến nhiều trăm Bạt nhưng chủ cửa hàng vẫn còn tin vào uy tín của vị và các chư tăng của chùa, các vị sẽ đi khuyên giáo gạo tiền để trả nợ, sẽ không quỵt nợ như nhiều lần trước. Cửa hàng có người đi lại tấp nập, ở đây vị đã kể lể cho tín đồ phật tử nghe nhiều chuyện. Ngài nói rằng bà con Nỏong-Khảm nam không quan tâm bỏ âu khất cho sư, “Bần tăng đã quyết định ra lệnh cho các chư tăng trong chùa không được nhận âu khất của bản Nỏong-Khảm nam nữa”. Bà Dưỡn có biết đâu vị sư cả  đã căn dặn các chư tăng trong chùa: “chư tăng nào nhận thức ăn của bản Nỏong-Khảm nam không được đên ở chùa tao, đến với họ để làm gì cái làng chẳng ăn chẳng bố thí đó”, vị còn phàn nàn cho tín đồ ở cửa hàng được nghe thêm rằng. “Thật hòai công khi ta đã hy sinh đến cứu thế, thay vị sư cả ở đây”. Khi bà con trong cửa hiệu hỏi đến xổ số vào kì tới, vị đã kể lại giấc mơ kì quặc cho mọi người nghe và đã nhấn mạnh bằng lời miệt thị. “Rồi họ sẽ biết, miếu dưới cây me Tây vừa bị sét đánh tan tành với bần tăng đây ai sẽ cho xổ số chính xác hơn”, lời niệt thị ấy đã trở nên dư luận xôn xao trong làng. Ngòai việc mua nợ ở cửa hang tạp hóa, vị còn mua chịu xổ số với người bán lẻ trong làng, người bán lẻ xổ số cũng tin chắc rằng, sư cả và chư tăng sẽ làm việc khuyên giáo đem về trả nợ, không quyt nợ như những lần trước…  

Bà Dưỡn cũng không hiểu rằng ngôi nhà của bà với cậu con trai đang bị hàng xóm xì xào thực hư thế nào, họ cho rằng. Tủ-Lít đã chết từ lâu rồi, có hình thù người ngợm như thế là do có ma thần quỷ độc nhập vào anh. Nhiều lần đám trẻ đuổi trâu ra đồng, chúng đưa trâu ngang qua hàng dậu nhà bà Dưỡn đã kể lại những chuyện rởn gai ốc cho người trong làng nghe. Chúng kể, có ngày khi đang ngồi dùng cỏ xóay dế chơi một mình ở gần đó, được nghe tiếng ầm ỹ trong nhà bà Dưỡn nó lén đến thật gần, thấy Tủ-Lít đang chửi vả mẹ đến thậm tế, nó thấy Tủ-Lít đánh mẹ mình và còn dơ chân đạp người mẹ già ngả dúi ngay trước mắt. Đôi khi nó thấy Tủ-Lít chui vào chuồng gà, khi quay ra mồm anh còn dây máu. Nó còn kể rằng, có một lần khi trời xẩm tối, nó đuổi đàn trâu về chuồng châm hơn thường ngày, đi qua cạnh nhà bà Dưỡn, tình cờ hắn gểnh nhìn lên cây xòai rừng cao to bên cạnh nhà bà, thằng bé hồi hộp kể lại với giọng hoảng sợ khi nói đến đọan. Thấy bà Dưỡn nhanh nhẹn trèo lên cây xoài rừng, bà bám cành nọ rồi nhảy như Sóc sang một cành kia trông rất điêu luyện giống như một con dười ươi, thằng bé chăn bò kể tiếp với giọng đứt đọan, khi nó sửng sốt đứng như bị trồng giữa trời bà Dưỡn quay lại nhìn thấy nó, tròng mắt bà chiếu ánh hào quang màu đỏ máu, khi bà bỉu môi cười xác con chim Kéc đã rơi khỏi miệng bà, nó cứ kể vung thiên địa như thế, có người không tin, nhưng cũng có người đã tin và còn bồi thêm vào chuyện được kể. Thấy rằng chuyện bí ẩn vượt ngòai tự nhiên của gia đình bà Dưỡn, kể cả khi nói đến ngôi nhà cuối cùng ấy trẻ nhỏ con thơ hay khóc lóc uốn ẹo gan lì cúng phải im bặt. Bà Dưỡn không hiểu được rằng tại sao ba đứa con gái lại lạnh nhạt với bà đến thế, bà không hiểu đến sự hổ thẹn của ba cô con gái đối với bà. Bà không hiểu được rằng xã hội bên ngòai đang chảy xiết tiến tới sự sụp đổ thế nào, đến việc thằng chắt mà chưa bao gìơ bà thấy mặt đã sinh được cậu con trai, năm nay nó đã hai tuổi rưỡi, địa vị của nó là đứa chút sau cùng của bà, nó mang tên thằng Xan-Tốt, bố của nó từng là võ sĩ có tên tuổi, là một ngôi sao đang lên nhưng đã gẫy gục hết thời vì thua bại bởi bệnh giang hồ, bố thằng Xan-Tốt ước vọng mãnh liệt sẽ tập luyện cho cậu con trai trở thành võ sĩ, trở thành vĩ nhân trong tương lai mà bà cũng chẳng hay biết. Cậu bé San-Tốt kẻ có tướng mạo lạ thường và thần kì, khác với lớp trẻ cùng lứa trong làng, nó có nước da đen như đồng hun, đầu nó to, trán nhô vượt quá đôi mày, đôi mắt dữ tợn, đôi môi mỏng manh, khi đi đứng nó không như những đứa trẻ khác, đi đâu nó đứng phắt dậy và phóng nhanh hết sức lực của nó dù chặng đường chỉ một gang một tấc hay xa lắc xa lơ, do chuyên môn chạy làm cho đôi mông nó cứng rắn mình mẩy nó rất khỏe mạnh.

Bố thằng Xan-Tốt buộc cái bì phân đạm nhét bông lẫn cát cho nó đấm đá hàng ngày, quả đấm, sống chân, đầu gối, cẳng tay được sử dụng thường xuyên. Nó là thằng bé mới hai tuổi rưỡi mà thái độ rất ngạo mạn nó càn rỡ ngông cuồng nhưng lại có nhiều mưu trí làm nó chẳng sợ ai kể cả người lớn cao hơn nó hàng mét, nó có tài nhớ, thuộc hết mọi lời nói suồng sã của người lớn, đại từ mà mà thằng Xan-Tốt dùng goi nhóm đàn bà dù là mẹ dù là bà nội, bà ngoại của nó là “con” vả lại nó gọi nhóm đàn ông là “thằng” kể cả bố của nó cũng không từ. Nó dám chửi bố là đồ mất dạy một cách tự nhiên mà không bị trừng phạt, nó luôn nhạo báng và thường xuyên ‘lên nước’ với nhóm thanh thiếu niên trong làng, nó đọc tiếng Anh một cách khoe khoang: A. An=con Kiến; B. Bat=con Dơi; C. Cat=con Mèo; D. Dog= con Chó trước mặt bọn họ để tỏ vẻ sự thông minh quá độ tuổi của nó, nó ném đầu chó, và chửi bố chửi mẹ người ta là chuyện thường, đôi khi nó ngứa tay ném trứng trong cửa hàng tạp hóa  mà không ngại gì, có được cái mệnh danh “con qủy nhỏ”, “đồ quỷ sứ” là do những hành vi của nó. Đã nhiều lần nó thách người lớn hơn tuổu bố  nó ra đường đánh nhau, nó chạy ra đứng chờ ngoài mặt đường vẫy tay thách thức. Cái lần bố nó đi làm bia di động luyện người đánh bốc trong Bang Cốc để nó ở nhà với mẹ và bà, bọn thanh thiếu niên đối địch với thằng Xan-Tốt xúi bẩy nó. “Bố mày đi Bang Cốc lấy vợ mọn không trở về nữa đâu”, thằng Xan-Tốt mặt nhăn mày nhó tức lộn ruột, nó chạy vào nhà bắt mẹ điện gọi bố tức thì. “Làm sao thế con”? tiếng từ cuối dây hỏi lại với vẻ thương yêu. “Mày không cần nói tốt với tao, thằng “Tắ” mày đừng về với tao nữa”, thằng Xan-Tốt quát bố nó, làm bố nó không bằng lòng “Tại sao mày lại nói với bố như thế hả, rồi tao sẽ không mua xe cuốc cho mày chơi đấy”. “Mày không phải mua về cho tao, tao chẳng muốn được”. Nó dùng những lời thô tục đối đáp với bố nó, nhóm người lớn đưa nhau cười sặc sụa, nó càng chửi bọn họ lài càng càng cười to lên, làm nó đánh giá về cử chỉ ấy là đúng nên thằng Xan-Tốt đã trở thành đứa bé nguy hiểm nhất trong làng. Không ai sửa nó hoặc chú ý đến cử chỉ quá tả của nó. Bà Dưỡn cũng chẳng biết trong cái làng mà bà sinh ra và lớn lên giờ đây đang đầy rẫy sự mâu thuẫn, kể từ khi chiếc miếu “Pụ-Ta” được dời từ thửa ruộng của ông chánh tổng cũ, đưa về đặt dưới cây Me tây cổ thụ trên đất của ông chánh tổng mới, chỉ thế cũng đã xẩy ra sự tranh dành quần chúng giữa ‘sư’ với ‘ma’.

Anh thợ làm diều, gắn dây sáo diều được hay nhất người cuối cùng của làng đã giải nghệ, bởi thằng con trai út đã lấy chồng Tây người châu Âu. Thằng Tây người to như hộ pháp, tóc vàng, da đỏ như Gấc chín khi   đụng vào nắng gắt, nó dựng nhà kiểu Âu to như pháo đài giữa canh đồng hoang vắng, đến dịp “ngày lành tháng tốt” tiếng cãi cọ của thằng Tây, kẻ dả dụ là chồng với con trai ông thợ làm sáo diều, kẻ tự cho mình là vợ  ầm ỹ cả đồng vắng, thằng Tây mày rậm cứ chửi bô lô ba loa bằng thứ tiếng của nó, thằng vợ chửi lại bằng tiếng Thái, bên ông bên bà cứ chửi lau nhau bằng tiếng của nước mình với cái giọng đau nhói tức ách rầm cả  cánh đông. Nhưng chẳng bao lâu cả đôi lại đồng ý đi xin con người ta về nuôi, họ coi như đứa con được sinh ra từ bào thai của thằng vợ, thế cũng là hạnh phúc.

Bà Dưỡn chẳng hiểu được, bà đang ở giữa nhưng vấn đề gì, những chuyện xấu xa quá đỗi trong làng xẩy ra hết lần này đến lượt khác, cô con gái xinh đẹp của ông chủ Ba-Ra-Mi bán xổ số lậu đã lấy chồng người thứ mười một, chỉ thêm một người nữa là đủ tá, cứ mỗi lần như thế xóm giềng lại thầm thì to nhỏ lấy làm vui miệng, nhóm đàn bà rảnh rỗi ở nhà nuôi con được dịp ngồi lê đôi mách chuyện thiên hạ cho thêm đậm đặc, trong lúc ông chồng phải xuống đồng lên nương vất vả, vấn đề chính là họ chỉ trích cô con gái xinh đẹp của ông chủ xổ số  mà những người thích ngồi lê đôi mách cũng chẳng đẹp đẽ gì đều lọai ma chê qủy hờn cả, họ buông thả mình đến béo phị, bề phệ, trễ sà coi như những cái bị thịt, nhưng cái giọng đâm xoi của họ thì khỏi phải nói, họ thiên về chuyện thất bại của kẻ khác là việc đáng hồi hộp trong vấn đề múa mồm múa mép, bọn họ thì thầm rằng: Khi người con gái xinh đẹp của ông chủ xổ số Ba-Ra-Mi đang sống hạnh phúc với người chồng thứ mười, cùng đứa con gái út sau cùng ở tỉnh thành, nàng bị ông bố ép buộc, phải cấp tốc trở về làng, ông đã tổ chức cuộc liên hoan nho nhỏ tại nhà để đưa đẩy người con gái xinh đẹp cho một ông già giàu có và ngu ngốc, ông thách cưới một hai trăm nghìn Bạt và bốn năm chỉ vàng. Ông già ở độ tuổi ông nội từ phương xa đã chịu thách cưới khi ông nghĩ sẽ được gặm cỏ non theo cái thói bò già thường mê man đồng cỏ non một cách mù quáng. Chỉ sau không đầy hai tháng, người con gái của ông chủ xổ số Ba-Ra-Mi đã mang theo đứa con trong bụng của ông chồng thứ mười một, bỏ về ở với người chồng thứ mười trẻ và khỏe hơn. Nhưng cũng là chuyện lạ, bởi con của ông chồng thứ hai, ông chồng thứ ba, con của chồng thứ sáu, con của ông chồng thứ bảy và thứ mười, họ hòa thuận và chia sẻ với nhau, phần đứa con của ông chồng thứ mười một sẽ chào đời trong tương lai chắc cũng nhận được sự yêu thương đùm bọc của các anh các chị.

Mấy bà khi túm ba túm bảy đôi mách những chuyện có thật nhưng còn đậm đặc hơn cả tiều thuyết trong làng, khi xoi mói chuyện người ta một cách cặn kẽ, họ chuyển từ nhóm “trao đổi ý kiến” biến thành sòng bạc, bài Thái, bài Tây đủ thứ, cho đến khi mặt trời lặn cũng không ai chịu đứng dậy khỏi sòng bạc, con cái đeo đẽo đứa trước đứa sau, chúng đói lả kêu la léo nhéo nhưng cơn bạc khát nước họ quên giờ giấc sớm tối, không lo cơm nước cho chồng về ăn, nhà cửa luộm thuộm không quét dọn, vợ chồng xung khắc, nhiều nhà chồng bỏ đi lấy vợ khác, người ta mới mệnh danh cho họ là cái “làng bà góa con côi”. Khi yên ắm thì nói xấu người ta, khi gia đình sinh chuyện lại bị người ta nói xấu, đó là chuyện không thể tránh khỏi của mấy nhà này.        

 

Bà Dưỡn chờ đợi ngày về của đứa con trai đến da diết. Đôi lần bà liên tưởng đến những chuyện đẹp đẽ trong dĩ vãng, chỉ trong khỏanh khắc đó bà mở đôi môi đang ngậm ngúm nhoẻn miệng cười nhẹ, đây là một ấn tượng mà lâu lâu mới trở lại trong trí ức của bà. Lúc bà còn đi lại vững vàng bà Dưỡn thường hẹn hò với bạn bè cùng tuổi, vai đeo giỏ mắt thưa lót đáy bằng lá chuối tươi, tay cầm xuổng rủ nhau đi hái nấm rừng sau cơn mưa vừa chấm dứt, họ đi sâu vào trong bãi rừng, bà Dưỡn đã định nơi có nấm mối Cứt gà và nấm mối Tượng đang nở rộ trên chỏm mối điểm bà đã hái vào năm ngóai, bà hái nấm mọc ở cây gỗ và cành cây mục đổ gẫy dọc đường, các lọai nấm Gió, nấm Tai Dê, nấm Tai Lừa nấm Béo và các lọai nấm mọc nhiều ở mặt đất như nấm Hột, nấm Phổi Ngựa, nấm Dái Chó... Không khí sau cơn mưa thiệt trong sạch, cơn mưa đầu mùa hòa quyện vào lòng đất, bốc lên mùi thơm nồng của đất, hài hòa với tiếng ve sầu, tiếng dế đực đua nhau gáy vang dội khu rừng. Mỗi lần đi hái nấm, bà Dưỡn hái được nhiều hơn mọi người, bà trẩy lá rừng gói nấm chia cho những người nhặt được ít hoặc đem về biếu hàng xóm, phần bà chỉ để lại đủ ăn, bà Dưỡn không cảm thấy hạnh phúc nào bằng được vào rừng bới đất vạch lá hái nấm với bạn bè, tiếng hú ý ới gọi nhau, tiếng chí chóe khi gặp phải con vật bò sát dưới đất, bà cảm thấy vừa vui vừa hồi hộp, bà thỏai mái với bạn bè. Có năm họ hẹn nhau đi nhổ cói nước, mỗi người nhổ được một hai bó đem về chẻ phơi đầy sân bãi, họ đẽo vỏ cây Bông, cây Trắc, cây Mưng làm thuốc nhuộm, rồi giúp nhau dệt chiếu đem lên cúng chuà, chiếu được dệt dài đến nỗi người cất dọn phải cuốn đến thở dốc.                                                                                                                                         

Khi sự cụ “Phăn” chủ trì chùa còn sống, không khí của bản làng đầy êm ái. Ma lực trong lời nguyền cuả mụ phù thuỷ Khăm-Phản được coi như đã dịu đi trong giai đọan này. Vị sư chủ trì chuà đầu tiên cuả bản có đaọ đức tốt đẹp trong sinh hoạt, ông là sư cụ cao tuổi nhưng ánh mắt đầy sự yêu thương vô lường, đôi môi xít chặt nhưng vẫn in nụ cười phúc hậu, đúng là nơi chùa đất phật vàng nên dân chúng lên chùa nghe thuyết giáo và làm phước đông đúc, đây là thời kì thư giãn trước mọi kinh hòang, nụ cười phấn khởi đua nở trên khuôn mặt của dân làng. Nhưng giai đọan này không tồn tại được lâu, nhà sư Phăn tuổi đã già nhưng đã ngày đêm truyền tâm và họat động với tăng ni phật tử nên vị đã lâm bệnh, không lâu sư cụ đã viên tịch, sư cụ viên tịch bình thường như mọi vị sư khác, chỉ biết trong phạm vi nhỏ hẹp. Thân thể của sư cụ sau hỏa táng, trong những viên hài cốt còn lại, có những viên bắng lóng ngón tay trong sáng như giọt sương tinh khiết. Sự viên tich của sư cụ đã làm cho dân làng mất đi chỗ dượa về tâm hồn.

         Sự tiêu điều bắt đầu trở lại bản Na-Khảm một lần nữa, điều báo hiệu là những người lạ mặt tứ chiêng vào đây khai hoang chiếm đất thành một vành đai rộng rãi. Điềm dữ và tai họa bắt đầu dang rộng cánh tay của nó một cách trắng trợn, nó trở lại với những điều nguyền rủa. Ngôi chùa của làng Nỏong-Khảm hoang tàn um tùm cỏ dại, thời kỳ chân không của lòng tin đã chiếm một thời gian lâu dài, làm dân làng quay trở lại gắn bó với miếu “Pụ-Ta”, họ thờ cúng miếu Pụ-Ta một lần nữa. Miếu Pụ-Ta đã ban nhiều hậu lộc cho dân làng, với lòng tin nhiều người đã nhận được lộc trời khi họ chắm chắm nhìn tàn nhang uốn cong queo, cặp đôi cặp ba, họ deo quẻ, xem mắt dứa, dự đóan trứng luộc và từ các đồ vật thờ cúng khác, tùy theo dự đóan từ con mắt của mỗi người. Mỗi kì xổ số ra trong làng sẽ có đôi ba người trúng số, đôi khi trúng cả làng làm họ xôn xao với sự linh thiêng của miếu Pụ-Ta. Nhưng lòng tín ngưỡng đối với miếu Pụ-Ta dưới cây Me tây cổ thụ đã thay đổi. Một vị sư già và chư tăng đã hành hương đến đây, làm cho cộng đồng Nỏong-Khảm sống động một lần nữa, tên chùa được đổi lại thành chùa “Thê-pha-ni-vát” cùng với con đường rải nhựa. Nhựa được rải chồng lên lớp đất đỏ cũ, sự phồn thịnh đang tuôn   về từ nơi văn minh xa xôi. Bà Dưỡn ngồi dưới gầm nhà bên cạnh chuồng trâu cũ, bà đưa mắt nhìn về phương xa, đôi mắt vần đục nhìn quãng trời mênh mông vô tận, vành môi của bà đã co quặm càng co quặm hơn, dấu vết nhăn nhó trên vầng trán hiện lên theo nỗi xúc cảm của bà. Bà Dưỡn không để ý đến quầng đen đã hiện lên như một ảo ảnh, nó đang dần dần tiến gần đến, nó to lên khi dừng lại dưới lùm cây dù chỉ trong chốc lát, rồi tiếp tục di chuyển, một hồi khá lâu, đến lúc có tiếng động xào xạc băng qua bãi cỏ cạnh nhà tiến gần lại. Tủ-Lít với hình dáng gầy guộc bước tới mẹ cùng chiếc gậy mây khá to trong tay, Anh Tủ nói với mẹ: “Đây là vũ khí của cụ thầy Pha-Kham trong giấc mộng, nó là lõi mây rằn như sắt thép, từ trăm bụi, ngàn bụi mới có được một đọan mây như thế, công dụng của nó đã được cụ thầy Phá-Kham chấp nhận, và anh phải trải nhiều khó khăn mới có được”.

 Bà Dưỡn vái lạy và cầu khấn cụ thầy Phá-Kham với sự tôn kinh hết lòng. Tủ-Lít không chần chừ vội đem lõi mây đi nung lửa vừa nung anh vừa niệm thần chú rồi đem vào trau chuốt, vừa làm Tủ-Lít vừa mấp máy đôi môi, rồi thổi nhẹ vào đoạn mây nhiều lần, đôi khi anh nhắm mắt lại để niệm, anh dương ngọn mây lên giữa trời trước khi đem tẩm mỡ rắn. Thái độ của Tủ-Lít họat bát như trai tráng, anh tập trung tâm trí cao độ vào chiếc gậy, anh miệt mài xây dựng vũ khí của ông cụ thầy Phá-Kham.

 Lễ tế được tiếp tục theo trình tự của nó… Cho đến khi bà Dưỡn đi nằm, bà giật mình tỉnh dậy giữa đêm khuya bởi tiếng sấm vang động từ nơi xa, bà dần dần mở mắt, chỉ nhìn thấy bóng hình sừng sững đang di động bên đống lửa, ngọn lửa bốc cháy rừng rực, đôi khi có tiếng nổ đì đạch trong đám cháy, ngọn lửa rực cháy cao lên tỏa nhiệt lan rộng lảm tàu dừa phần phật cong lên. Bóng hình bên đống lửa đôi khi dướn cao quá tầm con mắt của bà, đôi lúc nó bành ra méo mó thay đổi hình dạng, mọi sự nhìn thấy đều vượt ngòai sức tưởng tượng của bà. Giờ đây cơn buồn ngủ đã thôi thúc bà, bà khép mi mắt lại, bóng hình đen sẫm cuối cùng mất hút trong đống lửa. Bà Dưỡn nằm yên với giấc ngủ ngon lành trong tiếng nổ từ đống lửa và tiếng sấm đì đùng gần lại.

 

Trời hửng sáng bà Dưỡn từ từ chống mình đứng dậy, tiếng gà gáy sớm dồn dã thôi thúc vang xa, tay bà quờ phải vật gì ở gần mình, bà dùng nó nâng mình lên và nhích đít ra khỏi buồng trong khi trong tay bà vẫn cầm chặt vật đó. Quầng dương tỏa sáng chân trời phía đông rồi dần dần tỏa sáng khắp bầu trời rộng mênh mông. Bà Dưỡn mỉm cười khi bà nhìn thấy vật trong tay được rõ nét, nó là chếc gậy đen nhánh bà đưa lên nhìn tận mắt, ánh sáng phản chiếu óng ánh như huyền ngọc, chiếc gậy chứa ẩn một điều thần bí, bà Dưỡn gật đầu với ý vừa lòng, bà đã nâng nó cả hai tay, hình thù của nó trông như con rắn hổ mang đã được dãn thẳng, rồi thôi miên bằng lời thần chú linh thiêng. Bà Dưỡn gọi tên con trai mình bằng tiếng khàn khàn nhỏ nhẹ, chẳng có tiếng đáp lại chỉ có dấu vết của đống tro tàn và ngọn khói lam bốc lên khen khét mùi cháy theo luồng gió nhẹ. Bà già dùng chiếc gậy vừa mới nhận được dìu mình đi lại nhiều vòng cho đến khi bà cảm thấy mệt.

Tủ-Lít lại biến mất, sự biến đi của anh lần này giống hệt như lần trước, con trai bà mất tích không để lại dấu vết gì, không mốt điều dặn dò   to nhỏ, làm cho bà Dưỡn nghĩ ngợi miên man, khi không còn gì để phân tích, bà giắt chiếc gậy vào mảnh vải quấn lưng rồi leo lên nhà để nấu nướng, bà chưa bao giờ cảm thấy ấm lòng như hôm nay khi bà có chiếc gậy trong tay, nó không phải chiếc gậy bình thường, nó là chếc gậy linh thiêng của cố thầy Phá-Kham, chỉ có cố thầy mới chắn lại lời nguyền rùng rợn của mụ phù thủy Khăm-Phản. Bà vuốt ve chiếc gậy với lòng đầy tự tin, giờ đây không có tai họa nào quấy nhiễu bà được nữa, bà mỉm cười rồi đong gạo từ cái chum nhỏ đổ vào chiếc nồi cũ kĩ méo mó. Chắc Tủ-Lít có thể vào rừng kiếm củi về đốt than, hoặc có thể lên rừng chặt mây đem về bán, đôi khi bà Dưỡn lại cảm thấy Tủ-Lít quanh quẩn bên mình mà bà không nhìn thấy nó.

     

Kể từ đó đến nay thời gian đã trải qua nhiều năm, bà Dưỡn một mình  sống côi cút nghèo nàn, bà không thể tự giúp mình được trong nhiều vấn đề, nhưng cũng bươn chải để tìm kiếm miếng ăn tùy sức của mình. Giờ đây bà chẳng hi vọng đứa con trai bà trở về nữa, bà thiết nghĩ  nếu Tủ-Lít không còn sống trên cõi trần này, chắc chắn linh hồn anh sẽ nhập vào chiếc gậy để nâng đỡ bà khi đi đây đi đó. Khi đã tin chắc như vậy bà Dưỡn chẳng phải buồn sầu chi thêm nữa, bà can trường chịu đựng, bà hiểu rằng từ thời cổ xa xưa, người chế biến vũ khí được tốt nhất đầu tiên phải hiến cuộc đời hòa quyện máu thịt của mình vào với vũ khí, đó là nguyện vọng của cố thầy Phá-Kham. Bà là nhân sinh còn sót lại từ thời cổ cũ nên phải gánh chịu những điều bí ẩn một thân một mình, giờ đây dân làng chắc đã quên hết những chuyện đó rồi, nhưng đối với bà luôn ý thức về lời nguyền của mụ phù thủy Khăm-Phản, nó đang gây tai họa  cho dân làng mà không hay biết, nó lẳng lặng ăn dần ăn mòn cho đến khi họ từ từ chết đi một cách im lặng với ý đồ độc ác, ngay đến bà cũng thế chẳng có sự châm chước nào, hơn thế bà lại là mục tiêu của cuộc tấn công này. Bà Dưỡn dơ cao chiếc gậy lên quá đầu, mình bà rung lên, sự sợ hãi vẫn nung nắu trong lòng bà khó nào dứt khỏi.

Trí nhớ lại tấn công bà một lần nữa, bà còn nhớ rõ như in, nó là lúc vận hạn của bà, nó đột ngột và phiêu liu đến mức xuyt nữa thì phải vứt bỏ tính mạng của mình, nó là tai họa rất bình thường nếu đối với kẻ khác, nhưng đối với bà nó là một cuộc thử sức được đổi bằng tính mạng. Lúc ấy bà đi hái rau đem luộc chấm nước tương, đó là một cuộc hái rau bình thường, rau Bát bát đâm ngọn tua tủa xanh rờn leo trên dậu, bà tất tưởi từng bước nhặt ngọn Bát bát căng mộng, bà mải vui lửng thửng nhích mình từng bước trong buổi sáng nguy kịch ấy, khi bà nhận biết những điều quanh mình thì bà đã dẫn mình lọt vào giữa vòng vây của bầy chó dữ, mặc dù bà biết rằng cách đây hai ngôi nhà họ nuôi bốn năm con chó lai hung dữ chúng nó bị xích vào cột nhà, ông chủ của nó trồng nhiều giống xòai, ban đêm bầy chó được thả để giữ vườn xòai, sáng ra ông sẽ xính lại cả ngày, cơm nước ông để cho chúng ăn riêng từng con một, nhưng buổi sáng ấy chắc là ngày đen đủi của bà, ông chủ chúng nó ngủ dậy trưa, bầy chó đã từ vườn sau chạy rong ra đường, khi chúng nó thấy bà Dưỡn lom khom nhặt rau trong khu vực của nó, trông thái độ của bà  khác với một kẻ ăn cắp bình thường mà chúng nó từng giáp mặt và đã từng gửi lại những vết răng sắc nhọn, cử chỉ ấy của bà làm cho bầy chó nghĩ rằng đây là một con chó khác vùng. Con chó đầu đàn chăm chắm nhìn bà Dưỡn, bầy chó này được luyện nuôi như nô lệ nhằm cho chúng nó hung dữ và biết cắn xé, việc chúng nó bị nhốt từ nhỏ làm cho chúng nó hung dữ. Bà Dưỡn tựa mình vào cột dậu bởi bà bị bao vây tứ phía, bà giữ chặt chiếc gậy, bà rùng mình, đôi môi nghiền chặt, bà đưa mắt liếc đi liếc lại, con chó đầu đàn nhìn thấy chiếc gậy của đối thủ, nó ngửi được mùi rắn độc tỏa ra từ chiếc gậy theo bản năng của kẻ săn bắt, lông cổ  sống lưng và đuôi của chúng nó dựng đứng, tiếng chúng nó gầm nhỏ trong cổ họng nó nhe nanh sắc nhọn, bã nước bọt dãi xuống mặt đường thành từng vệt, tất cả đang khép chặt vòng vây, chúng nó nhíc lại gần bà, đôi mắt hùng dữ của chúng nó làm bà Dưỡn kiệt sức, bà như đang qụy xuống bãi cỏ để chúng nó tự do dày xéo xương thịt của bà được thỏa mãn, con đầu đàn từ từ bước tới bà, những con khác đều làm theo, đây là một chiến dịch đầy im lặng, con đầu đàn nhắm vào cổ đối thủ không chớp mắt, nó chỉ ngoặm một lần để rồi sau đó đồng bọn nó sẽ xông vào cắn xé được trúng đích. Chúng nghĩ trước đây chúng chỉ được ăn lọai thức ăn tồi, chúng nó cần được nếm mùi của thịt và máu tươi nữa. Cổ bà như khô cháy, trái tim bà Dưỡn đập mạnh như chực bật ra khỏi lồng ngược, giây phút bà đưa chiếc gậy vụt đi vụt lại ấy, bà Dưỡn cảm nhận được mùi thuốc lào lẫn trong mùi lá chuối khô mà Tú-Lít từng vấn hút thường xuyên, mùi thuốc sặc sụa xuyên vào lồng mũi của bà, bà hiểu được với bản năng, linh hồn của Tủ-Lít chắc chắn đang ở bên cạnh bà, sự sợ hãi đã bắt đầu lùi dần, thay vào đó bằng trái tim đầy khí thế. Trong tức khắc, con đầu đàn nhảy xồm tới bà với hết sức của nó, bà Dưỡn sẵn sàng chờ nó, bà thọc chiếc gậy đâm vào giữa tròng mắt con đầu đàn, cái đuôi thon nhỏ của chiếc gậy xuyên vào tròng mắt sâu hoắm của nó, con chó đầu đàn dẫy đành đạch nằm chết dưới chân bà, làm cho những con khác sững sờ. Chúng rút lui trong lời quát của ông chủ từ trên nhà quát xuống, chúng nó chạy cong đuôi trở vào nhà với sự hốt hỏang. Bà Dưỡn ngồi tụt xuống bãi đất bên cạnh xác con chó đầu đàn, mồ hôi hột tuôn ra tẩm ướt cả mình, bà kiệt sức ngồi bệt trên bãi cỏ bên hàng rào hồi lâu. Lúc này bà tin rằng chiếc gậy linh thiêng đã cứu vớt bà, ông thầy Phá-Kham đang nhìn bà lúc mụ phù thủy Khăm-Phản dẫn bầy thú giữ đến quấy nhiễu để trả thù bà. Xuýt nữa thì bà đã thất thế cho bầy chó rừng rú ấy rồi. Đó là một kinh nghiệm hồi hộp nhất trong cuộc đời, bấy lần nghĩ đến nó đều gây rùng rợn đến tột độ đối với bà. Bà Dưỡn vuốt ve chiếc gậy với sự nâng niu, bà luôn lau chùi chiếc gậy cho xứng với sự yêu quý nhất, không có lúc nào mà chiếc vũ khí của cụ thầy Phá-Kham rời khỏi người. Bà nghĩ, lời nguyền rủa của mụ phù thủy Khăm-Phản còn chưa chấm dứt.

 

Mỗi khi bà Dưỡn đãng trí nghĩ đến sự việc khủng khiếp lần đó, sự phiêu liu đối với tính mạng của bà, làm bà giải tỏa sự kinh hòang ấy bằng việc thở dài nhiều lần, nhưng trong những cơn suy nghĩ mỏng manh ấy bà lại cảm thấy hài lòng khi đã giết được con quỷ dữ, bà đã tin một cách vững tâm rằng bầy chó ấy đã bị phù phép thôi miên của mụ già Khăm-Phản mụ phù thủy cuối cùng của bản.

Sự thóat chết lần ấy đã trải qua lâu rồi, dù giờ đây hơi thở của bà Dưỡn có yếu nhẹ đi, xem ra cũng chẳng quan trọng bằng thân thể của bà, bà trải qua mưa nắng đã hơn một trăm năm mà không hay biết, dường như bà đã bẵng quên tuổi tác của mình, sự suy tàn của tuổi tác đã để lại những cái xác về phía sau. Con mắt bên phải của bà đã mờ nhòa dù giữa ban ngày, đôi mắt bà đã bước tới giai đọan mù lòa vĩnh viễn, sự đau nhói của mình mẩy đã chui luồn vào tận xương tủy, thức ăn hàng ngày giờ đây đã nhạt nhẽo bởi thần kinh lưỡi không chịu tiếp thụ gia vị nữa, sự được làm con người của bà đang tiến tới tan tành, sự xum họp của ngũ hành để cấu tạo thân thể của bà cũng đã quá mệt mỏi và sẵn sàng tách rời để trở về với quá trình hình thành của nó, sự trung thành vẫn là chiếc gậy mây của cụ thầy Phá-Kham, điều này đã làm cho bà Dưỡn kiên quyết đứng  dậy, dù có phải phiêu lưu với tình thế đến chừng nào bà vẫn còn vững vàng giữa trào lưu xiết chảy của sự thay đổi quanh mình. Tuy vậy quy định của thiên nhiên vẫn không tha từ, nó đang tấn công bà già một cách im lặng.  

Năm nay trời mưa tầm tã suốt mùa, đã nhiều tháng nay bà Dưỡn đau ốm thường xuyên, ở vào lúc hơn trăm tuổi bà cảm thấy cuộc đời thật cô đơn ở trên cõi trần, bà như tro bụi đang náu mình trên vách đá hung vĩ. Giữa ngày cơ thể rét run bởi cơn sốt và cơn gió giật chẳng khoan dung, bà chợt nghĩ đến vận mệnh của mình, hơi thở của bà có thể tắt đi từ lúc nào, trái tim bà có thể ngừng đập trong giây phút nào, bà có thể chết Ô… bà Dưỡn nhẹ trút hơi thở và rùng mình lo âu với cuộc đời, thật là cái chết đã xiết chặt vòng vây đối với bà rồi… Dù trong bộ não sự nhận thức của bà đã giảm sút, nhưng tinh thần bà Dưỡn còn ý thức đến nghĩa vụ của người làm mẹ người làm bà và người làm cố, cuối cùng bà lại nghí đến con cháu, ít ra nếu bà có chết bà nên chết trước mặt con cháu. Cái chết đang vẫy gọi bà một lần nữa, từ cơn ho nhỏ nhẹ giờ đây bà phải giằn ho từng đợt dài, đó là dấu hiệu của thần chết. Bà cố gượng ngồi dậy trong cơn sốt phừng phực, bà đã quyết định dứt khóat, bà sẽ ra đi một lần nữa và chuyến đi này có thể là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời. Bà già quờ quạng tìm chiếc gậy, bà dùng hai tay nắm chặt chiếc gậy rồi dồn hết sức chống mạnh xuống đất nhấc mình đứng dậy, khi đứng dậy được bà cố nén mình chờ đợi cho hết cơn run rẫy.

Bầy chó quỷ ấy chắc đang chờ bà ở ngoài đường, chúng nó phải nhớ được bà, dù bị xích nhưng hận thù của chúng nó không thể quên, bà cũng chưa chắc là đã an tòan, bởi sự hằn thù luôn có sức mạnh của nó, phần nữa nếu phải đi ra đường cái, bà phải đi vòng một quãng đường quá xa bà Dưỡn chọn con đường đi thẳng, phải băng qua vườn chuối cỏ săng  rậm rạp đó là chặng đường ngắn nhất, bà nghĩ như thế dù có nguy hiểm nhưng không có chặng đường khác gần hơn. Tinh thần bà được tăng lên cũng chẳng là bao bởi không còn thì giờ nữa, bà chẳng lo đến việc ăn mặc, chiếc váy dơ bẩn vết nước đái loang lổ từng quầng không làm bà bận tâm, chiếc áo cánh cổ rộng mỏng manh có chỗ rách vá bà cũng chẳng màng. Bà còn nhớ mang máng là nếu đi tắt ngang từ trước nhà sẽ thông ra con đường cái, từ đó quành trái cũng chẳng xa là đến khu vực của ba cô con gái của bà, đó là con đường mà bà không chọn để tránh bầy chó dữ.  

Cơn gió đã giảm sức mạnh xuống, đây là thời gian thuận lợi, một tay bà vịn cột dậu trước nhà, tay khác bà nắm chặt chiếc gậy, cảnh quang trước mặt chỉ nhìn thấy lờ mờ, tình trạng của cơn sốt rét vẫn còn âm ỷ. Bà bắt đầu ra đi, băng qua khu đất có những khóm bụi mọc thưa thớt men theo con đường hẹp cỏ mọc rậm do vắng người qua lại từ lâu, bà dùng  chiếc gậy quờ quạng phang vào vạt cỏ cho có tiếng động, báo hiệu để lòai Sà Rắn tránh khỏi con đường mà bà đang đi tới. Khí trời lạnh rét đè nặng lên làn da nhăn nhó của bà, như để làm hại cơ thể của bà cho khô cứng. Bà Dưỡn xiết chặt chiếc gậy để làm nhiệm vụ chống vững, vừa phang về phía trước để vạch đường, chẳng đơn giản đâu khi phải băng qua rừng rậm. Bà không thể ngã xuống được, nếu ngã xuống bà sẽ không có điều kiện để dứng dậy nữa. Cái lưng còm cọm song song với mặt đất với bước đi chậm chạp, bà tiến thẳng về phía trước với lòng tự tin, phải mất nhiều thời gian mới băng được khu rừng thưa để đi vào vườn chuối Mốc đang phất lá, lá chuối đu đưa theo ngọn gió, gió lặng im trong chốc lát rồi bắt đầu thổi xối xả, cây chuối mọng nước mưa rung động trong cơn gío thổi và có tiếng kêu ọot ẹt ở cây chuối như đang chực lốc lên cả bụi, phía trên ngọn gió gào rít điên cuồng, lá chuối cọ vào nhau phần phật gây nên xáo động. Bà Dưỡn vừa đi vừa dừng lại nghỉ từng hồi, thân hình bé nhỏ nhẹ bước giữa vườn chuối, bước đi lúng liếng của bà như đang bị cơn gió chực nhổ lên cả mảng một cách đáng ghê sợ.

Mình đi đúng lối rồi bà nghĩ, khi nhấc chân cứng đờ bước đi chậm  chạp, bà tập trung tinh thần đi trên con đường nhỏ, con đường này sẽ đưa bà thông ra con đường cái trước mặt, bà đang vượt qua vườn chuối.   Cơn gió lại thổi mạnh lên, bà không cự được sức gió, một tay bà ôm cây chuối còn tay kia run lẩy bẩy giứ chặt chiếc gậy, chỉ trong dây lát cơn gió đang thổi mạnh bống lặng ngắt như huyền bí. Trời hửng sáng lần đầu tiên trong ngày, bà Dưỡn nâng chiếc gậy lên quá đầu cám ơn trời đất, cám ơn những đấng linh thiêng một cách vu vơ. Chỉ trong nháy mắt cái bóng đang cử động trước mặt lại nhạt nhòa khi đám mây đen bắt đầu di chuyển che khuất ánh mặt trời. Có chuyện không bình thường ! Bà Dưỡn dừng lại, chú ý đến vật di động như nó đang tiến đến gần bà, tâm hồn bà lại giao động một lần nữa, trong khi bà cố gắng chấn an tinh thần, bà cảm thấy rùng rợn, khi bà chăm chắm với sự để tâm để ý, đầu bà lại lắc đi lắc lại vì tuổi tác, nhưng mãi hình ảnh phía trước vẫn không hiện rõ hơn lên, vật ấy dừng lại ở phía trước chỉ cách bà chẳng mấy sải tay, thân hình nó lùn cũn trông như người còi, bà cất tiếng hỏi nhưng phía bên kia vẫn im bặt. Thân hình ấy di chuyển sang bên trái, rồi sang bên phải, sang trái rồi sang phải cứ mãi như thế, bà Dưỡn đưa mắt nhìn theo. Chắc nó là con khỉ bà nghĩ. Trong trí ức về quá khứ, ở khu vực này có bầy khỉ sinh sống ở đây. Nếu là Khỉ tại sao chúng nó lại đi xuống đất mà không nhảy nhót đu đưa trên cành, bầy của nó có thể ở đâu đây, con khỉ đột lì lợm và bầy của nó có lẽ đang chăm chắm nhìn bà, bọn nó có nguy hiểm không nhỉ ? Bọn nó có    mục đích gì nhỉ? Bà bắt đầu lo âu và sợ hại nhưng bà vẫn im lặng, phút   giây im lặng đầy nguy hiểm o ép bà dữ dội, bà Dưỡn quyết định dơ chiếc gậy lên phang vào đám cỏ và cất tiếng xua đuổi nhiều lần nhưng hình bóng ấy vẫn còn im lặng, đây là sự im lặng lạ thường trái với bản chất của lòai khỉ. Bà có hiểu được rằng hình bóng đứng cách bà vài ba sải là một đứa bé và cậu bé ấy chính là chút của bà mà bà không có điều kiện được thấy mặt hoặc quen biết. Nó chinh là thằng Xan-Tốt, trước đây nó tự do chạy đùa nghịch ngợm trên đường cái, bố nó đi Bang-Cốc, mẹ của nó lên nương làm rẫy ngô, bà ngọai đang lên cơn sốt nằm bẹp trên nhà, bạn bè đều đi học cả còn nó thì vờ ốm lòe bịp mọi người để nghỉ học.

Thằng Xan-Tốt đã chú ý đến sự lay động trong vườn chuối nó chăm chú nhìn hồi lâu, nó không hiểu cái đang di động chậm chạp đó là gì, nhưng cái mà nó thấy chắc chắn không phải là người như nó từng thấy. Mẹ của nó luôn dọa nó, nếu nó nghịc ngợm mụ phù thủy Khăm-Phản sẽ đến móc gan nó ăn, lúc đầu không quen nó cũng sợ mất hồn, nhưng khi bị dọa luôn nó cũng nhờn và cảm thấy binh thường. Nó quả là thằng bé khôn có nọc, nó luôn xem họat hình trong TV thấy mụ phù thủy hình dáng kì dị tay cầm chiếc gậy thần, hình thù quái gở, mà chiếc gậy đó cũng đến thần kì, mỗi khi mụ dơ chiếc gậy chỉ vào đâu chiếc gậy sẽ phun ra giòng điện và điều không lành sẽ xẩy ra. Nó rất thích nhân vật nam chính trong vô tuyến, anh đã làm nhiệm vụ giệt trừ bọn trộm cướp trong chuyện và cả mụ phù thủy thâm độc, nó từng ví nó là nhân vật vai nam chính để trừng trị bọn côn đồ tướng cướp và cả mụ phù thủy thâm độc nữa.

Đã từ lâu nó nhìn lén từ trên con đường cái, có vật gì đang di động lẩy bẩy trong vườn chuối. Ấy thật sự chính là mụ phù thủy, mụ có làn da nhăn nhó, thân hình dị dạng xấu xí chẳng giống con người, rồi chiếc gậy thần kì quặc ấy nữa. Sự hiện diện của mụ phù thủy cũng có luồng gió rộn rạo như trong vô tuyến. Thằng Xan-Tốt khom chân nắm đấm trong tư thế sẵn sàng giống hệt như vai nam chính trong TV vậy, nó nhớ rõ chiếc gậy của mụ phù thủy là thứ vũ khí đầy thâm hiểm phải giành lấy bằng được, nếu thành công sự độc hại của mụ tức thì biến mất. Bà Dưỡn dơ chiếc gậy phang vào vạt cỏ lần nữa và lên tiếng xua đuổi. Bầu trời tối sầm lại, chớp dật liên hồi rồi tiếng sấm đình đòang. Bà bắt đầu lo sợ với những gì đã xẩy ra từ phía trên trời và từ phía trước, đến nỗi bà không thể nín đái được, nó đang rỉ chảy ướt đẫm cả váy của bà.

Khi con khỉ lạc bầy ấy bắt đầu tiến thẳng về phía bà, vẫn theo động   tác cũ bà dơ chiếc gậy lên quất vu vơ theo bản năng, nhưng đã bị con khỉ nắm lấy được, rồi một cuộc dằng co đã diễn ra, bà Dưỡn nắm chiếc gậy bằng hai tay thật rắn chắc, bà kiên quyết không chịu để chiếc gậy rơi vào tay đối thủ. Với thân hình mảnh khảnh ấy khi dằng co chiếc gậy bà phải quay vòng, bà Dưỡn cố gắng chống lại hết sức mình, đôi chân bà đã lả bởi bà đã băng qua cánh rừng thưa đến gần kiệt sức, bà dìu mình dựa vào cây chuối để khỏi ngã, bà thở dỗc gây cơn nghẹn trong cổ họng. Con khỉ ma, con khỉ độc nó không chịu thả chiếc gậy, nó còn lôi dật và nhảy lên nhảy xuống làm bà choáng váng. Bà kiên quyuết không chịu ngã xuống, dứt khóat bà không thể ngã xuống. Bà Dưỡn đã bắt đầu hiểu được rằng con khỉ độc này là tay sai của mụ phù thủy Khăm-Phản, nó có âm mưu dành chiếc gậy của cụ thầy Phá-Kham. Bà đưa đầu gậy kẹp vào nách cho vững hơn, bả vai bên trái chập choạng dựa vào cây chuối, đôi mắt mờ lòa lại bắt đầu có trở ngại khi đám mây đen nghịt chuyển dịch che khuất mặt trời làm tối như bưng. Con khỉ ngoan cố dai dẳng cầm lấy đuôi chiếc gậy, bà cố chống cự với sức lực của mình mà bà có thể làm được. Bà cảm thấy như mặt đất đang sụp xuống chôn lấp bà.

Thời gian trôi qua bao lâu không ai biết được, cuộc ‘chiến tranh’ dành chiếc gậy vẫn tiếp diễn một cách quyết liệt, đôi lúc cả hai bên phải dừng nghỉ để giữ sức và củng cố tư thế, nhưng hai tay của đôi bên vẫn ghì chặt chiếc gậy. Bà Dưỡn cảm thấy như đã kiệt sức, nhiều lần đôi chân  đã qụy xuống, bà thở không kịp bởi cái mệt làm bà gần nhừ tắt thở, sức lực của đối thủ vẫn dồi dào và hình như nó còn tăng lên nữa. Bà không thể đầu hàng, chiếc gậy là sự sống của bà nếu để nó chiếm mất bằng như bà đã để mất tính mạng của mình, đây là hơi thở cuối cùng, là giai đọan cuối của cuộc chiến đấu cực kì gian nan này.

Mưa lại bắt đầu nặng hạt rồi tầm tã kéo dài, cuốc chiến đấu chưa chấm dứt. Bà già mệt nhừ người bởi cơn sốt, cuộc hành trình và cuộc chiến đấu làm cho cơ thể của bà dường như sắp tan nát, làn da nhăn nhó ướt đẫm và cơn rét dữ dội đang hoành hành bà, giờ đây đôi mắt bà không còn nhìn thấy nữa, cơn mây đen và cơn mưa nặng hạt đã che mắt bà. Bà nhận biết sức mạnh ở cuối chiếc gậy vẫn còn nặng nề, bà kiên quyết chiến đấu để dành dật với nó. Bà Dưỡn cảm thấy nhức nhói khắp mình mẩy, tình huống lúc này thật nặng nề đối với bà, thời gian càng  kéo dài bà càng thất thế, chiếc gậy ướt nước mưa càng nhẵn trơn bà phải  nắm chặt lấy nó cho vững vàng hơn. Nước mưa đang chảy ròng ngấm vào tròng Thằng Xan-Tốt nó lấy mặt cọ vào cánh tay để lau mặt. Mụ phù thủy này dai dẳng hơn nó dự tính, nó phải nhanh chóng kết thúc cuộc chiến đấu này, bộ mày dưới vầng trán nhô của nó đang chụm vào nhau, nó cắn môi nhìn chăm chắm đối thủ bằng con mắt hằn thù dận dữ, nó trút hơi thở rồi thả chiếc gậy, xông vào vừa đá vừa đấm đánh đập túi bụi, quả đấm, sống chân, khỉu gối, khỉu tay quại tới tấp vào minh mụ phù thủy dị dang không dung tha, thân thể cứng rắn của nó khỏe mạnh, đôi chân cứng cáp của nó làm việc có hiệu quả, khi mụ phù thủy đau đớn kêu van nó càng được nước, nó không chịu khoan nhượng tuôn tất cả mọi ngón võ tới tấp vào bà, nó phải dành chiếc gậy từ mụ phù thủy cho bằng được. Trời vẫn mưa xối xả, thằng Xan-Tốt phải hành động để giành chiếc gậy theo võ thuật của bố nó luyện cho, nó đã nhìn thấy sự chiến thắng trong tầm tay với, nó chạy vòng quanh mụ phù thủy, dựa vào sự hoạt bát, nó huy động mọi thứ vũ khí trong mình đánh vào mụ một cách tàn nhẫn, bà Dưỡn thét lên vì đau đớn khi bị đá vào đùi bị đấm vào hông, bị cẳng tay thọc vào mặt, tiếng chất rắn va mạnh vào thân hình mảnh mai của bà, những tiếng đó tác động vào lồng ngực và cảm giác của bà, sự đau đớn đang dày vò thân thể và cắn xé tâm hồn bà dường như không chịu nổi, nhưng dứt khóat bà không thể chịu thua vào lúc này được. Trong giây phút nguy ngập ấy bà Dưỡn đã cất tiếng thét gọi cụ Phá-Kham và quại mạnh chiếc gậy bằng sức bật lần cuối cùng, chiếc gậy chạm vào thể rắn gây tiếng kêu “bốp” trong lúc bà khịu xuống cạnh bụi chuối, con khỉ ma độc ngã gục xuống trong thế đứng của nó, mãi đến khi bà già nghe tiêng nó chạy xột xọat biến mất trong rừng cỏ. Bà Dưỡn nằm xòai ra giữa bãi trong tay vẫn cầm chặt chiếc gậy, đầu tóc bạc dây bẩn đất bùn và ướt đẫm do cơn mưa như trút nước, bà cố gượng mình dậy, nhưng đã kiệt sức bà Dưỡn dơ chiếc gậy đặt vào ngực mình.

 

                   Cuộc chiến đấu lâu dài đã kết thúc, bà đã chiến thắng đại diện của mụ phù thủy già Khăm-Phản, đây là sự vật lộn lần cuối của bà. Tiếng sét đánh làm rung chuyển mặt đất không xa nơi bà nằm và tiếp đến là tiếng cây to gẫy đổ, bà chẳng màng hoặc run sợ nào khác nữa, mặc dù không được gặp mặt con gái trước khi mọi sự đã chấm dứt nhưng bà Dưỡn đã cố gắng hết sức mình rồi, ba buồn ngủ và trời rét quá chừng, thân thể bà cũng chẳng cử động được nữa, bà Dưỡn mỉm cười và tự khép mắt lại giữa cơn mưa tầm tã như đang điên cuồng trút nước .,.   

bottom of page